Trong bất cứ xã hội nào, thì bộ phận có học vấn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với mọi lĩnh vực. Điều đơn giản này thiết tưởng chẳng cần phải nhắc lại. Nhưng thực tế lịch sử luôn khiến chúng ta không được yên lòng, chủ quan với bất cứ nhận định nào.
Số phận của trí
thức luôn gắn liền với số phận của những cộng đồng, quốc gia cụ thể, nơi anh ta
là thành viên. Trong những xã hội lạc hậu, bảo thủ, trí thức luôn bị dị nghị, bị
nghi ngờ, bị lánh xa, thậm chí bị coi thường, bị biến thành kẻ thù nguy hiểm,
như chúng ta từng thấy, đang thấy và chắc chắn sẽ còn thấy. Các đấng quân
vương, những kẻ độc tài thường đòi hỏi mọi thần dân đều phải nhất nhất tin theo
ông bà ta, cấm bàn cãi. Mọi lời ông bà ta ban ra là chân lý cuối cùng, bất khả
tư nghị, không ai có quyền nghi ngờ tính đúng đắn tuyệt đối của nó. Trí thức
trong những xã hội ấy thường đóng vai trò làm vật trang trí, không có tiếng
nói, hoặc quay sang quy phục quyền lực để vinh thân phì gia, chấp nhận làm cái
loa cho nó, trở thành những kẻ xu nịnh hèn mạt.
Trong khi đó, trí
thức là “kho trí khôn” là “túi càn khôn”, là “mỏ trí tuệ” của những xã hội văn
minh, nơi đề cao tiếng nói phản biện. Tại đó, trí thức và giới trí thức không
chỉ là những người cung cấp ý tưởng, tư tưởng, các sáng kiến, vạch ra kế sách,
can dự vào các chính sách, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn những
giá trị tinh thần cao quý như đạo đức, lẽ phải, sự tiến bộ, định hình chiến lược
giúp quốc gia hướng tới tương lai.
Vậy trí thức thực
chất là ai?
Có khá nhiều định
nghĩa thế nào là một trí thức? Theo tiêu chí học vấn và có vẻ cũng dễ được chấp
nhận nhất, thì trí thức là người có bằng cấp, có học hàm học vị. Theo tiêu chí
công việc, thì trí thức là những người chuyên nghiên cứu, phát minh, sáng chế,
quản lý, truyền thụ kiến thức....nghĩa là làm việc bằng cái đầu. Rồi với mỗi chế
độ xã hội lại có những định nghĩa khác nhau, theo quan niệm riêng của mình, về
trí thức.
Một trí thức lớn (mà tôi không nhớ tên) có một
cách nói rất hay, làm nổi bật chân dung của một trí thức. Ông bảo rằng: Người
nghĩ ra bom hạt nhân, chắc chắn phải là một bác học. Nhưng nếu anh ta không thấy
trước để cảnh báo về tai họa của bom hạt nhân với nhân loại, thì anh ta chưa phải
là một trí thức!”
Một người học đầy
mình, có đủ kiến thức đông tây kim cổ nhưng nếu thiếu trách nhiệm với cộng đồng,
thiếu đạo đức, vô cảm với nỗi đau đồng loại, thì vẫn chưa phải là một trí thức.
Sự quan trọng của
trí thức trước hết bởi họ vốn là những người luôn có óc hoài nghi. Người bình
thường, những kẻ ít học, có thể yên phận tin theo số đông, nhưng một trí thức
thì không, hoặc không dễ tin theo. Thậm chí anh ta sẵn sàng chống lại tất cả để
bảo vệ quan điểm, chính kiến của mình.
Nhưng giá trị
đích thực, giá trị lớn nhất của trí thức lại ở chính cái phẩm chất ấy?
Thứ hai, trí thức
là những người có tầm nhìn xa, có tư duy sắc bén, nhạy cảm với mọi thay đổi. Họ
là những người đoán định được tương lai dựa trên những suy tưởng mang tính triết
học.
Nhưng có lẽ quan
trọng nhất, trí thức là nguồn ánh sáng dẫn dắt sự phát triển lành mạnh của xã hội.
Một xã hội không phát triển, chắc chắn là một xã hội không có tương lai. Nhưng
sự phát triển thiếu dẫn dắt, thiếu trí tưởng tượng lại rất dễ gây thảm họa, tạo
ra thứ chúng ta gọi là nhân tai, thậm chí còn nguy hiểm cả hơn thảm họa thiên
tai, như chúng ta vẫn thấy.
Chính vì những điều
đó mà tiếng nói của trí thức luôn vô cùng quan trọng. Nó cần thiết vào mọi thời
điểm, mọi không gian quyền lực chính trị, văn hóa, với mọi thể chế xã hội. Trước
mỗi vấn đề lớn của quốc gia, liên quan đến hàng triệu người, thì tiếng nói của
trí thức càng phải được lắng nghe một cách nghiêm túc và chân thành.
Trên thực tế, thì
tiếng nói quan trọng nhất của trí thức thể hiện ở những ý kiến phản biện.
Tuy được nhắc đến
hàng ngày, nhưng không nhiều người hiểu thấu đáo từ phản biện, hành động phản
biện. Vì nó có từ “phản” (luôn được hiểu là chống lại) nên thường phản biện bị
gán cho nghĩa tiêu cực. Tiêu cực nhất mà người ta hay quy cho phản biện, là nó
làm thất tán sự tập trung, phá rối, gây mất đoàn kết của cộng đồng khi thực hiện
một công việc, một chính sách nào đó!
Vậy phản biện cần
được hiểu thế nào?
Trước hết, phản
biện là một tư duy, một thái độ và một quyền. Trong từ điển Đào Duy Anh, thì phản
có nhiều nghĩa: Trái; Trả lại; Trở về; Tự xét. Còn từ biện có các nghĩa: Xét rõ
để phân biệt; Tranh luận phải trái; …Ghép hai từ lại với nhau thành Phản biện,
có thể hiểu là đưa ra một cái nhìn trái chiều mang tính tranh luận, trên cơ sở
học thuật và trách nhiệm, để tìm ra những chỗ sai, những chỗ chưa hợp lý, những
chỗ chưa chuẩn xác, chưa khôn ngoan, chưa hợp thời… (của một quan điểm, một
chính sách nào đó) rồi cùng nhau đạt đến mức hoàn thiện nhất có thể. Như vậy từ
sâu trong bản chất, phản biện mang tính trách nhiệm và tinh thần xây dựng, chứ
không như nhiều người cho rằng nó nhằm chống lại, phá rối?
Đã phản biện thì
đòi hỏi đầu tiên phải có chính kiến. A dua, nói theo thì còn phản biện nỗi gì!
Bởi vì a dua là một hình thức xu thời, chắc chắn mang động cơ vụ lợi cá nhân.
Tiếp theo, muốn
phản biện, phải có nền tảng học vấn tốt, có tư duy độc lập, không chấp nhận bất
cứ chỉ đạo định hướng nào, của bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào.
Cuối cùng, người
đưa ra ý kiến phản biện phải là người có tư cách đạo đức, có tinh thần tự do.
Vì sao cần tiếng nói phản biện?
Trên thực tế
không có bất cứ thứ gì là hoàn hảo, vì thế bất cứ thứ gì muốn tiến tới hoàn hảo,
cũng cần được soi xét nhiều chiều. Một mô hình phát triển, một đường lối, một
chính sách, một điều luật, một chủ trương… có ảnh hưởng lớn đến xã hội, cho dù
nhóm soạn thảo có tài giỏi đến đâu, cá nhân nào đó có là thiên tài, thì vì đặc
tính “nhân vô thập toàn” của con người, không thể nào bao quát được toàn bộ sự
đúng đắn. Sự giới hạn về mặt không gian, thời gian, văn hóa… cũng luôn là một vật
cản chắn tầm mắt của những người trong cuộc.
Khi đó nó cần các
nhà phản biện, như những người có thể giúp họ thoát ra khỏi vấn đề để nhìn nó từ
bên ngoài, từ nhãn quan khác, từ phía ngược lại. Bởi vì mục tiêu cuối cùng của
phản biện không phải là để tranh hơn tranh kém về tầm vóc học vấn, không phải
nhằm tìm cách bôi nhọ, giễu cợt nhau, không nhằm xóa bỏ vô lối, vô lý mà để
hoàn thiện thứ bị phản biện.
Viết đến đây tôi
lại nhớ đến lời của một vĩ nhân: “Dân tộc nào thiếu vắng những nhà phản biện lớn,
thì đó là dân tộc đại vô phúc”.
Post a Comment