Tri túc là biết đủ, biết an trú vào những gì mà mình hiện có, không vọng tưởng mong cầu. Một đời sống tri túc đúng nghĩa là một đời sống an lạc, thanh cao vì không còn bị khổ đau do sự chi phối của dục vọng. Thế nên, trong kinh Di Giáo, Phật đã dạy: “Người biết sống tri túc, tuy nằm trên đất cũng an lạc, người không biết sống tri túc, tuy ở trên các cõi trời nhưng lòng cũng không an ổn”.
Cần phải thấy rằng, cứu cánh đích
thực mà giáo lý Phật đà nhắm đến là diệt hết mọi khổ đau trong cuộc sống. Muốn
thoát khỏi khổ đau thì điều kiện tiên quyết đầu tiên là phải vượt thoát khỏi mọi
dục vọng. Bởi lẽ, mầm mống cội nguồn của tất cả các nỗi khổ đau trong cuộc sống
này đều bắt nguồn từ những tham muốn của con người. Còn tham muốn là còn đau khổ,
đó là chuỗi nhân quả tất yếu. Cho nên, việc loại bỏ dần những tham muốn trong
cuộc sống đời người đồng nghĩa với việc thực hành một đời sống tri túc. Ở đây,
tri túc là một pháp hành, trợ lực cho hành giả trên con đường thăng tiến tâm
linh và giải thoát khổ đau. Tuy nhiên, trên bình diện hiện thực của một người với
nhiều nghiệp duyên ràng buộc nhưng đang hướng về Thánh đạo; lẽ cố nhiên ta phải
tự xác định vị trí cũng như phải lựa chọn một con đường phù hợp, ngõ hầu gặp
nhiều thuận duyên trên hành trình tìm về Bảo sở của chính mình. Vì lẽ, Phật
giáo là một tôn giáo xây dựng trên cơ sở hiện thực, dựa vào những điều kiện thiết
thân của mỗi chúng sanh mà đưa ra những cách thức phù hợp cho môi người.
Khi đã xác định là một người được
sinh ra trên cõi đời này, lẽ dĩ nhiên mỗi chúng ta còn phải đối diện với nhiều
vấn đề phức tạp khác của cuộc sống. Chẳng hạn như: phải lập nghiệp, mưu sinh,
quan hệ xã hội, bạn bè, sinh con đẻ cái, dựng vợ gả chồng cho con cái... tất cả
những vấn đề đó đòi hỏi những cơ sở để tồn tại mà đời sống vật chất là một điều
kiện cần không thể thiếu. Vấn đề ở đây chính là khi tạo ra và sử dụng những
phương tiện vật chất ấy, ta phải có thái độ như thế nào để phù hợp với tinh thần
tri túc.
“Cho nên có thể thấy, sống tri túc không nhất thiết phải chấp nhận một
cuộc sống với điều kiện vật chất tạm bợ và như vậy không hề ngăn cản sự tiến
lên hay “làm giàu” của mỗi cá nhân”.
Ở đây, theo chúng tôi tri túc
không phải là một giáo lý khuyến khích sự tự mãn, tự bằng lòng cá nhân với những
gì ít ỏi mà mình có, mà chính là một thái độ biểu lộ sự thao thức của mình đối
với những nỗi khổ đau của tha nhân. Chính vì thông cảm với những nỗi khổ đau ấy
mà một con người chân chính không an tâm thâu góp riêng cho mình những tài lợi,
những tiện nghi mà mình có thể sở hữu và có quyền thâu góp. Chính vì thông cảm
với nỗi khổ đau ấy mà người lương thiện quên bớt mình đi và nghĩ đến người,
luôn luôn tâm niệm rằng những điều kiện vật chất mà mình đang có là có thể tạm đủ cho mình rồi và dành thời
giờ, tâm lực để lo lắng cho kẻ khác. Chính nhờ sự tự nguyện tri túc như vậy mà
người chân chính biết hạn chế sử dụng những xa xỉ phẩm, những phí tổn vô ích
khác và có thể dành dụm những sở hữu vật chất nhất định để giúp đỡ cho tha
thân. Có thêm vài mẫu ruộng để mở mang canh tác, có thêm một chiếc xe để thuận
tiện việc đi lại, có được một cái căn nhà, điện thoại để tiện việc thông tin...
điều đó không có gì chống trái, không hề đi ngược lại giáo lý tri túc. Trừ phi
phương tiện để có được những điều kiện vật chất ấy là phương tiện bất chính và
mục tiêu sử dụng là để nhằm thỏa mãn tư dục của cá nhân.
Cho nên có thể thấy, sống tri túc
không nhất thiết phải chấp nhận một cuộc sống với điều kiện vật chất tạm bợ và
như vậy không hề ngăn cản sự tiến lên hay “làm giàu” của mỗi cá nhân. Việc vận
dụng nhiều phương tiện hỗ trợ trong cuộc sống không hề trái với tinh thần tri
túc, vì cần phải hiểu tri túc chính là biết đủ đối với bản thân mình để từ đó
có thể hy sinh mà phụng sự cho người, cho nhân loại.
Post a Comment